Sáng kiến kinh nghiệm Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2
Bạn đang xem 30 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ren_chu_viet_cho_hoc_sinh_lop_2.doc
Nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2
- THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến:“Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2” 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Tháng 9 năm 2020 đến Tháng 3 năm 2021 4. Tác giả: Họ và tên: Phạm Thị Mận Năm sinh: 1966 Nơi thường trú: Bình Hòa - Giao Thuỷ - Nam Định Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Chức vụ công tác: Tổ trưởng tổ 2,3 Nơi làm việc: Trường Tiểu học Giao Xuân Địa chỉ liên hệ: Bình Hòa - Giao Thuỷ - Nam Định Điện thoại: 0985215895 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100% 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến Tên đơn vị: Trường Tiểu học Giao Xuân Địa chỉ: Giao Xuân - Giao Thuỷ - Nam Định Điện thoại: 03503896710
- I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Từ ngàn xưa ông bà ta đã nói: “Nét chữ thể hiện nết người”. Thật vậy, rèn chữ viết là rèn tính cẩn thận, tỉ mỉ, tính kiên trì, rèn khả năng thẩm mĩ, tính chính xác, khoa học, sự chăm chỉ say mê học tập cho học sinh nói chung và học sinh bậc tiểu học nói riêng Nói tóm lại, rèn chữ viết là góp phần giáo dục học sinh phát triển toàn diện và tạo điều kiện cho các em học tốt các môn học khác. Qua nhiều năm công tác và giảng dạy, tôi thấy việc rèn chữ viết cho học sinh Tiểu học là một việc làm quan trọng và cấp bách không chỉ đối với người giáo viên mà Đảng và nhà nước cũng quan tâm đặc biệt. Đất nước ta đang đà phát triển, nền khoa học không ngừng đi lên, đòi hỏi con người phải phát triển toàn diện thì mới đưa đất nước tiến lên một cách mạnh mẽ và vững chắc được. Do đó việc rèn chữ luôn được đặc biệt coi trọng ngay từ những năm học đầu cấp ở bậc Tiểu học. Vì nó là nền móng vững chắc cho việc học tập của các em sau này. Các em có viết đúng, viết đẹp thì các em mới học tốt được các môn học khác. Trong những năm học trước đây việc rèn chữ cho học sinh chưa được coi trọng, giáo viên mới chỉ nghiêng về việc rèn cho học sinh viết đúng chính tả là được, chưa rèn cho học sinh không những viết đúng chính tả mà còn phải viết đúng mẫu và viết đẹp. II.MÔ TẢ GIẢI PHÁP 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến: Trong nhiều năm gần đây, trường tôi giáo viên cũng đã đang và rất quan tâm đến việc luyện chữ cho học sinh song tôi thấy vậy là chưa đủ vì giáo viên mới chỉ chú trọng rèn viết ở môn Tiếng Việt. Vì vậy chất lượng sẽ không cao, không toàn diện. Tôi nghĩ rằng muốn rèn chữ cho học sinh ta phải rèn ở mọi lúc, mọi nơi, mà người giáo viên phải tốn rất nhiều công sức. Nếu chúng ta chỉ sao nhãng đi một chút trong việc rèn chữ thì chắc chắn sẽ làm mất đi nét chữ truyền thống của dân tộc mình, mất đi cái vốn tinh hoa sẵn có từ ngàn xưa, thay vào đó là những bài học chỉ có nội dung mà không có thẩm mĩ. Do đó tôi chọn đề tài: “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
- Đối tượng nghiên cứu là các tài liệu tham khảo và học sinh lớp 2C do tôi chủ nhiệm. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến. 2.1 Điều tra đánh giá cơ bản. Từ nhận thức trên tôi đã xây dựng cho mình một kế hoạch dạy môn Tiếng Việt tốt ngay từ đầu năm học. Khi nhận lớp tôi đã tiến hành điều tra phân loại mức độ chữ viết của từng học sinh, trong 2, 3 tuần đầu tôi cho học sinh viết bài và thống kê phân loại chữ viết, nhận xét, đánh giá các nhược điểm học sinh thường mắc phải. Tôi ghi nhận tỉ mỉ kết quả học tập của từng học sinh qua từng bài. Từ đó tiến hành tìm hiểu nguyên nhân học sinh mắc lỗi để lên kế hoạch, biện pháp sửa chữa kịp thời ngay từ đầu năm học. Do đó học sinh có thói quen, ý thức trong khi luyện viết bài hơn. Kết quả điều tra đầu năm học 2020- 2021, lớp 2C: Tổng số 32 học sinh. Chữ viết đúng, đẹp: - 12 em đạt 37,5% Chữ viết đúng nhưng xấu không đều nét và không đúng cỡ: - 11 em đạt 34,4% Chữ viết đẹp, đúng mẫu chữ nhưng sai lỗi chính tả: - 6 em đạt 18,8 % Chữ viết xấu, bỏ chữ, thiếu nét, thiếu thanh: - 3 em đạt 9,3% 2.2 Phân loại Từ điều tra đánh giá trên tôi đã tìm ra một số nguyên nhân và những biện pháp khắc phục sau: + Loại chữ viết đúng nhưng xấu, không đều nét và không đúng kích cỡ. * Nguyên nhân: Do học sinh chưa nắm được quy tắc viết, do tính cẩu thả mải chơi. * Biện pháp: Thực hiện tốt khâu luyện viết, động viên hướng dẫn học sinh viết đúng quy tắc, đúng mẫu cỡ chữ.
- + Loại chữ viết đẹp, đúng mẫu nhưng sai nhiều lỗi chính tả. * Nguyên nhân: Do học sinh đọc yếu, chưa có kĩ năng quan sát, nghe và phân tích chữ viết. * Biện pháp: Rèn kĩ năng phát âm chính xác, luyện óc quan sát phân tích chữ viết và thường xuyên luyện đọc. + Loại chữ viết xấu, bỏ chữ, thiếu nét, thiếu dấu thanh. * Nguyên nhân: Do học sinh đọc yếu, có tính lơ là, đãng trí, thiếu kiên trì, không có ý thức tập trung khi viết bài. * Biện pháp: Thường xuyên cho học sinh luyện đọc, nhắc nhở liên tục khi học sinh viết bài. Việc làm này tôi đã tiến hành trong suốt năm học. 2.3. Gây lòng tin đối với học sinh Tôi cho học sinh xem và đọc một số bài chữ đẹp của học sinh năm học trước để học sinh học tập và quan sát để thấy mình yêu thích mẫu chữ nào? Vì sao?
- Bài viết chữ đẹp của học sinh năm học trước Điều quan trong là nét chữ cô giáo viết bảng, viết lời phê trong vở học sinh phải thật sự mẫu mực. Từ đó, gây cho các em lòng tin nếu viết chữ đẹp, đúng, vở sạch, sẽ tự tin hơn, bạo dạn hơn, sẽ thích học hơn, đọc và học bài nhanh hơn, học sẽ tốt hơn và có em hồn nhiên cho rằng viết đẹp như cô sau này cũng là cô giáo như cô rồi từ đó các em tin tưởng lời cô dạy hơn và có ý thức viết đúng đẹp hơn. 2.4. Tiến hành cụ thể Sau khi điều tra đánh giá phân loại chữ viết của học sinh, biết được nguyên nhân và tôi tìm được biện pháp rèn chữ đúng đẹp như sau: a) Đối với học sinh viết đúng nhưng xấu, không đều nét và không đúng kích cỡ. Tôi giúp học sinh quan sát tỉ mỉ, giảng dạy tỉ mỉ lại quy tắc viết chính tả cho học sinh. Viết chữ không chỉ viết đúng mà cần phải viết đẹp, viết chuẩn và
- viết đúng kích cỡ đó là vẻ đẹp thẩm mĩ của chữ viết Việt từ xưa tới nay, nhất là đối với bậc Tiểu học. Muốn đạt được điều đó đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, tỉ mỉ, đi sâu đi sát từng học sinh tìm hiểu nguyên nhân để uốn nắn kịp thời. Có những em do tính cẩu thả mải chơi, giáo viên cần nhẹ nhàng khuyên bảo và hướng dẫn tỉ mỉ cho các em. Giáo viên có thể phải kèm khi các em viết bài trên lớp, thậm chí phải luôn đứng bên cạnh để nhắc nhở thường xuyên. Có những em chữ xấu do cẩu thả, do gien di truyền. Giáo viên khắc phục cho các em bằng cách cho học sinh tô lại mẫu chữ đúng và đẹp. Luôn vận dụng thực hành tập bài dự thi viết “Chữ đúng- Chữ đẹp” của học sinh Tiểu học tỉnh Nam Định cho học sinh qua từng tháng và trưng bày bài ngay tại lớp. Trong từng nhóm học sinh luôn có học sinh chữ đẹp và chuẩn hơn kèm cặp và nhắc nhở thường xuyên các bạn trong nhóm của mình. Tôi đã làm thường xuyên như thế và học sinh lớp tôi đã có rất nhiều em viết chữ đẹp, ngoài ra tôi còn gặp gỡ thêm phụ huynh có con viết chữ xấu để nhắc phụ huynh kèm thêm các em ở nhà. Đặc biệt người giáo viên phải thật kiên trì, không nôn nóng mà còn phải bắt tay từng em viết xấu để các em có nét chữ đều và đẹp. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh thấy nét chữ phải rõ ràng liền mạch, sáng sủa. Trong một con chữ dấu thanh đánh đúng cân đối và rõ ràng. Ví dụ: khi viết bài chính tả nghe viết, bài: “Bà cháu” – Bài 11B: “Thật vui khi có ông bà”- tiết 3-Tiếng Việt 2- Tập 1- trang 24. Sau khi giáo viên hướng dẫn chính tả xong và đọc bài cho học sinh viết, không quên nhắc nhở học sinh cách cầm bút, vị trí đặt vở và tư thế ngồi. Chú ý cho học sinh khoảng cách giữa các tiếng và các âm. Chẳng hạn viết câu: “Cô tiên phất chiếc quạt màu nhiệm ”. Khi viết tiếng Cô và tiếng tiên có khoảng cách một con chữ o. Ví dụ: Côotiên. Tiếng Cô âm C và ô nối liền nhau và có khoảng cách một nửa con chữ o. Cô
- Âm C và âm h cao 2,5 đơn vị. Âm q và âm p cao 2 đơn vị. Âm t cao 1,5 đơn vị. Âm ô, a, i, e ,m cao một đơn vị. Thanh nặng (.) đánh dưới chữ a – Ví dụ:quạt. Dưới sự kiên trì của giáo viên giúp học sinh có lòng tin ở cô và viết chữ ngày một đẹp hơn, phấn khởi tự tin hơn để học các môn học khác. b) Đối với học sinh viết chữ đẹp, đúng mẫu nhưng sai nhiều lỗi chính tả. Học sinh viết chữ đẹp mà mắc nhiều lỗi chính tả, là do các em đọc yếu, chưa có kĩ năng nghe viết, chưa hiểu từ chính xác. Đối với những học sinh này giáo viên phải giúp học sinh hiểu: Muốn viết đúng thì phải đọc đúng, phát âm chính xác và hiểu được từ đó, phân biệt từ đó với từ khác, đặc biệt là nắm được quy tắc viết chính tả. Để thực hiện được điều đó, giáo viên giúp học sinh thông qua việc rèn đọc, thông qua các bài tập chính tả. Ví dụ: Khi dạy bài chính tả nghe viết. Bài viết: “Sự tích cây vú sữa”- Hoạt động thực hành-Bài 12b: “Con sẽ luôn ở bên mẹ” trang 34 Tiếng Việt 2 Tập1 . Bài tập 2 – Giáo viên cho học sinh tìm các chữ bắt đầu bằng g hay gh. * Trưởng ban học tập tiến hành cho các bạn làm bài tập bằng hình thức thảo luận trong nhóm. * Nhóm trưởng cho các bạn làm việc. -Hoạt động cá nhân +Việc 1 : HS đọc thầm +Việc 2 : Tìm được các tiếng trong bài viết có âm gh và âm ngh -Hoạt động cặp đôi. +Việc 1 : Một bạn hỏi một bạn trả lời các tiếng âm gh và ngh
- +Việc 2 :Nhận xét bổ sung. -Hoạt động trước nhóm. +Việc 1 : Một bạn chia sẻ trước nhóm. +Việc 2 : Các bạn khác trong nhóm chú ý lắng nghe nhận xét, bổ sung. *Trưởng ban học tập cho các bạn chia sẻ trước lớp. - Đại diện hai nhóm phỏng vấn nhau : + Nhóm 1: Nhóm đố đứng tại chỗ. + Nhóm 2: Nhóm được đố lên bảng. - Học sinh thi tìm các chữ bắt đầu bằng g, gh. - Giáo viên tổng kết đánh giá. * Giáo viên cho học sinh thông qua các hoạt động đó nêu quy tắc viết chính tả với g, gh. * Học sinh nêu: - Gh đi với i, e, ê. - G đi với các âm còn lại (a, â, ă, o, ô, ơ, ư, u, ) Tương tự đối với các phụ âm khác để học sinh nắm vững quy tắc viết chính tả. Ngoài ra giáo viên còn rèn cho học sinh có thói quen lắng nghe, nhẩm đọc khi viết bài và phát âm chuẩn qua các bài tập đọc từ đó giúp các em không những viết đẹp mà còn khắc phục được lỗi chính tả, từ đó giúp các em tự tin hơn. c) Đối với học sinh có loại chữ viết bỏ chữ, thiếu nét, thiếu thanh. Những học sinh có loại chữ viết này là do các em đọc lơ là, đãng trí, thiếu tập trung và đọc yếu. Đối với học sinh đó giáo viên phải cho học sinh luyện đọc thường xuyên, rèn cho các em biết phân tích tổng hợp khi viết bài, chẳng hạn khi các em viết tiếng “Sống” trong bài: “Bà cháu”.
- Các em phải biết đánh vần trong óc: Sống = S + ông thêm thanh sắc = Sống Chứ không phải S+ôn thêm thanh sắc = Sốn. Đó là trường hợp các em viết thiếu nét, thiếu âm , một phần là do các em đọc và đánh vần kém, một phần là do các em lơ là không tập trung, vậy người giáo viên phải luôn đi sâu, đi sát kèm cặp học sinh ở mọi nơi mọi lúc. Ngoài việc rèn chữ cho học sinh như ở trên người giáo viên còn phải luôn tỏ ra yêu thương gần gũi học sinh viết yếu để kịp thời động viên những em đó tiến bộ song cũng cần tỏ ra nghiêm khắc đối với những em thiếu kiên trì trong việc rèn chữ, giữ vở. Đặc biệt chữ viết của cô phải thật sự mẫu mực đó chính là biện pháp rèn chữ trực quan nhất, làm được điều đó tôi đã đạt được 45 % - 50% của sự thành công trong việc rèn chữ cho học sinh đúng mà đẹp. Vì học sinh luôn tin tưởng ở cô và lấy cô làm gương cho mình. Giáo viên viết mẫu lên bảng
- Vạch rõ kế hoạch luyện viết cho học sinh ở lớp cũng như ở nhà. Thường xuyên cho luyện chữ phù hợp với từng đối tượng học sinh. Chẳng hạn những em viết đẹp mà sai nhiều lỗi tôi cho các em về nhà luyện đọc, phát âm chuẩn rồi mới viết bài. Đối với học sinh viết đúng mà xấu, bỏ nét, không đúng kích cỡ tôi cho các em luyện viết nhiều hơn. Các bài viết rèn thêm đều có kiểm tra đánh giá của giáo viên và kết hợp chặt chẽ với trưởng ban học tập, chủ tịch hội đồng tự quản của lớp. Cử những em viết chữ đúng đẹp trong nhóm kèm bạn viết yếu của nhóm mình và báo cáo kết quả kịp thời. Những em viết chữ đúng, đẹp trong nhóm kèm bạn viết yếu của nhóm mình.
- Thường xuyên phát động phong trào thi đua “Rèn chữ - giữ vở”cho học sinh qua các ngày lễ lớn mà nhà trường đề ra như ngày 15/ 10; 20/11; 22/12; 8/3; 26/3 và đặc biệt tháng nào học sinh cũng có bài viết chữ đẹp để trưng bày trước lớp Từ đó học sinh rất hào hứng thi đua viết chữ đẹp và đạt kết quả cao. Những thành tích của các em đạt được tôi khen ngợi và biểu dương kịp thời. Con nào viết chữ đẹp thì được treo lên đầu bảng vì thế các em luôn thi đua nhau viết chữ đúng, đẹp. Ngoài việc rèn chữ như trên, tôi luôn bám sát chương trình bộ môn mà Bộ Giáo dục ban hành nhất là phải tiếp cận ngay và kịp thời với phương pháp mới(VNEN), đánh giá học sinh theo thông tư 22. Nắm vững yêu cầu tối thiểu mà học sinh lớp 2 phải đạt được và có khả năng tiếp cận được với kiến thức lớp trên. Từ đó, hướng cho các em đạt được yêu cầu và nâng dần qua các kì học theo đúng chỉ đạo của ngành với bộ môn. III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI Sau thời gian dài áp dụng biện pháp rèn chữ viết cho học sinh nói trên tôi đã đạt được kết quả cao cả về mặt kinh tế (đối với học sinh) lẫn mặt xã hội. 1. Hiệu quả về mặt kinh tế: Khi học sinh viết chữ đúng và đẹp thì các em có ý thức giữ gìn đồ dùng học tập hơn. Các em biết nâng niu quý trọng dụng cụ học tập của mình như bút viết, sách vở, vì các em hiểu không may đánh rơi bút hoặc viết vào các vật cứng như bàn ghế thì ngòi bút sẽ bị hỏng, dẫn đến chữ viết sẽ bị xấu Vở bị nhàu nát, bỏ dở trang, quyển vở sẽ không đẹp. Từ đó các em biết giữ gìn dụng cụ học tập của mình, bản thân em và gia đình đỡ được một khoản chi phí trong học tập 2. Hiệu quả về mặt xã hội Tập thể lớp tôi luôn đi đầu trong khối qua các đợt thi chữ đẹp và các đợt kiểm tra. + Vở sạch chữ đẹp của nhà trường tổ chức.
- + Có nhiều em viết chữ đúng, đẹp được tuyên dương trước tập thể. + Về năng lực: Các em dạo dạn,tự tin trong giao tiếp và sẵn sàng chia sẻ cùng các bạn và thầy cô giáo khi nét chữ nào mình viết chưa đẹp, chưa chuẩn để viết đẹp hơn,chuẩn hơn. +Về phẩm chất: Các em ngoan ngoãn hơn, chịu khó hơn và kiên trì hơn không chỉ ở môn Tiếng Việt mà sự chăm chỉ chịu khó còn thể hiện thường xuyên trong tất cả các môn học. Kết quả cụ thể: Tổng 32 học sinh. Chữ viết đúng và đẹp : 29 em đạt 90,6 % Chữ viết đúng nhưng chưa được đều nét: 3 em đạt 9,4% Chữ viết sai và xấu không có HS nào. Từ thực tiễn và quá trình rèn chữ cho học sinh trong năm học này tôi tự rút ra bài học kinh nghiệm sau: - Luyện viết chữ cho học sinh là rất quan trọng. Qua đó rèn cho các em nhiều đức tính tốt như kiên trì, chịu khó, chăm chỉ, say mê học tập. Từ đó học sinh thích học hơn, bạo dạn hơn và tự tin hơn. - Học sinh viết chữ đẹp thường thích học và học tập tốt hơn học sinh viết chữ xấu. - Muốn rèn chữ tốt cho học sinh giáo viên phải: + Nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm, tính kiên trì, không nôn nóng. + Yêu nghề mến trẻ, phải thực sự là người mẹ thứ hai của các em. + Luôn gần gũi, động viên khích lệ các em đạt kết quả cao, quan tâm hơn đối với các em thiếu ý thức học tập. +Đặc biệt phải phát huy tích cực được Hội đồng tự quản của lớp. + Biết kết hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội và các đoàn thể khác. + Người giáo viên phải luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
- + Không ngừng học hỏi kinh nghiệm, tự học, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện mình để nâng cao trình độ chuyên môn có kiến thức vững vàng để giảng dạy tốt cho học sinh giúp các em trở thành con người phát triển toàn diện. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong công tác “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”. Tuy chưa hoàn hảo nhưng đó là cả một sự cố gắng của bản thân tôi trong công tác giảng dạy. Xét các mặt tôi thấy mình còn nhiều hạn chế. Tôi luôn có nguyện vọng học hỏi các thầy cô có kinh nghiệm rèn chữ đẹp, giữ vở sạch. Rất mong nhận được sự góp ý phê bình chân thành của các cấp trên để bài viết của mỗi chúng tôi ngày càng được hoàn thiện và đầy đủ hơn. 3. Khả năng áp dụng và nhân rộng Sáng kiến đã được công nhận về hiệu quả và được các bạn đồng nghiệp trong trường và các trường khác trong huyện áp dụng và nhân rộng. Sáng kiến được nhà trường, phòng GD xác nhận. IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN. Tôi xin cam đoan không sao chép hoặc vi phạm bản quyền của tác giả khác. Tôi xin chân thành cảm ơn! CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG TÁC GIẢ VIẾT SÁNG KIẾN SÁNG KIẾN (ký ghi rõ họ và tên) (xác nhận) Phạm Thị Mận (ký tên, đóng dấu)
- PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO (xác nhận, đánh giá xếp loại) (LĐ phòng ký tên, đóng dấu)
- CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng chấm sáng kiến Phòng giáo dục và Đào tạo huyện Giao Thủy. Tỷ lệ (%) Trình độ đóng góp Số Ngày tháng Nơi công Chức Họ và tên chuyên vào việc TT năm sinh tác danh môn tạo ra sáng kiến Trường Giáo Cao đẳng 1 Phạm Thị Mận 07/09/1966 Tiểu học 100% viên sư phạm Giao Xuân - Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2” 1. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 10/09/2020 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: 3.1. Tình trạng giải pháp trước khi có sáng kiến Trong nhiều năm gần đây, trường tôi giáo viên cũng đã đang và rất quan tâm đến việc luyện chữ cho học sinh song tôi thấy vậy là chưa đủ vì giáo viên mới chỉ chú trọng rèn viết ở môn Tiếng Việt. Vì vậy chất lượng sẽ không cao, không toàn diện. Tôi nghĩ rằng muốn rèn chữ cho học sinh ta phải rèn ở mọi lúc, mọi nơi, mà người giáo viên phải tốn rất nhiều công sức. Nếu chúng ta chỉ sao nhãng đi một chút trong việc rèn chữ thì chắc chắn sẽ làm mất đi nét chữ truyền thống của dân tộc mình, mất đi cái vốn tinh hoa sẵn có từ ngàn xưa, thay vào đó là những bài học chỉ có nội dung mà không có thẩm mĩ. Do đó tôi chọn đề tài: “Rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”. Đối tượng nghiên cứu là các tài liệu tham khảo và học sinh lớp 2C do tôi chủ nhiệm.
- 3.2 Mục đích sáng kiến - Giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học - Giúp học sinh tích cực, chủ động trong học tập 3.3 Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến: 3.3.1 Điều tra đánh giá cơ bản. 3.3.2 Phân loại + Loại chữ viết đúng nhưng xấu, không đều nét và không đúng kích cỡ. + Loại chữ viết đẹp, đúng mẫu nhưng sai nhiều lỗi chính tả. + Loại chữ viết xấu, bỏ chữ, thiếu nét, thiếu dấu thanh. 3.3.3. Gây lòng tin đối với học sinh 3.3.4. Tiến hành cụ thể a) Đối với học sinh viết đúng nhưng xấu, không đều nét và không đúng kích cỡ. b) Đối với học sinh viết chữ đẹp, đúng mẫu nhưng sai nhiều lỗi chính tả. c) Đối với học sinh có loại chữ viết bỏ chữ, thiếu nét, thiếu thanh. 4. Những điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 4.1 Đối với giáo viên: Cần phải tích cực nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng: Tăng cường các hoạt động ứng dụng, trải nghiệm sáng tạo cho học sinh. -Tăng cường chuẩn bị đồ dùng thiết bị dạy học. 4.2 Cơ sở vật chất: Đồ dùng thiết bị dạy học môn Tiếng Việt và một số dụng cụ trong các tiết thực hành: mẫu chữ, giấy, bút . 5. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: + Tỷ lệ học sinh viết chữ đúng, chữ đẹp: 29 em đạt 90,6%, học sinh viết chữ đúng nhưng chưa được đều nét: 3 em đạt 9,4% + Các em mạnh dạn, tự tin, chủ động trong học tập. 6. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử: Sau khi áp dụng các giải pháp trên thì các đồng nghiệp của tôi chia sẻ:
- + Đây là các giải pháp rất tốt để rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 + Các giải pháp trên có thể nhân rộng tới tất các các khối lớp khác trong phạm vi trong huyện, ngoài huyện tỉnh. Tôi xin cam đoan mọi thông tin trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Giao Xuân, ngày 25 tháng 3 năm 2021 Người nộp đơn (Ký và ghi rõ họ tên) Phạm Thị Mận I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
- Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng đó là hình thành 4 kỹ năng: đọc- viết- nghe - nói cho học sinh. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành. Trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng nền móng vững chắc, tạo đà phát triển cho các em. Có học tốt môn Tiếng Việt thì các em mới có thể tham gia học tập các môn học khác trong chương trình nhằm phát triển toàn diện học sinh. Là người giáo viên, tôi nhận thức được điều đó tôi đặt việc dạy cho học sinh phát âm đúng là nhiệm vụ hàng đầu và hết sức cần thiết. Muốn vậy, người giáo viên phải có kĩ năng, sự khéo léo, sáng tạo và cả sự tận tụy, thường xuyên luyện tập thì mới có được những kĩ năng và phương pháp tốt giúp các em phát âm đúng. Phát âm đúng sẽ giúp học sinh có kĩ năng đọc đúng , từ đó đọc hay; hiểu đúng từ ngữ, vận dụng tốt để rèn luyện kĩ năng nói và viết một cách chuẩn xác. Ngoài ra, phát âm đúng còn tạo cho các em sự tự tin trong giao tiếp, mạnh dạn trình bày ý kiến trước đám đông, trước tập thể Điều này có ảnh hưởng lớn đến hình thành nhân cách cho mỗi con người. Đòi hỏi người giáo viên trong giảng dạy phải luôn quan tâm đến mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh. Vì vậy việc hình thành kĩ năng đọc - nói - nghe viết đúng phải được chú ý ngay từ khi học sinh bắt đầu được học phân môn Học vần. Qua tiếp xúc với học sinh trong qua trình giao tiếp và giảng dạy, tôi thấy không chỉ học sinh lớp 2 phát âm chưa đúng mà các học sinh lớp trên cũng còn mắc rất nhiều lỗi về phát âm.Tôi đã tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của những lỗi đó, một phần rất lớn là do các em không được rèn luyện ngay từ đầu. Năm học này, được phân công giảng dạy lớp 2, nhận thức được tầm quan trọng của phân môn Học vần bắt đầu hình thành và phát triển 4 kĩ năng cho học sinh; xác định được vai trò và trách nhiệm của mình đối với học sinh, tôi đã đặc biệt quan tâm tới việc rèn, sửa lỗi phát âm cho học sinh, mong muốn giúp các em học sinh học tập thật tốt môn Tiếng việt, cũng như các môn học khác. Vì thế tôi đã lựa chọn đề tài “Một số biện pháp sửa lỗi phát âm cho học sinh Lớp 2”. II. THỰC TRẠNG * Qua thực tế giảng dạy và giao tiếp với học sinh, tôi nhận thấy học sinh thường mắc những lỗi phát âm như sau: + Phần âm: HS thường sai lẫn : l – n , x – s , ch – tr , p – b + Phần vần: uya –ua, uyên – uên, ươ -uê + Đọc tiếng từ:
- - Sai lẫn phụ âm: l – n (nón – lón ), x – s ( đường xá – đường sá , ch – tr ( cây tre - cây che ), r – d ( cá rô – cá dô, rổ - dổ ), r – g (cá rô – cá gô ) - Sai lẫn dấu thanh: Thanh hỏi – thanh nặng (đi ngủ - đi ngụ, cử tạ - cự tạ, củ sả - cụ sạ ) Thanh sắc – thanh ngã ( em bé ngã – em bé ngá, lọ mỡ - lọ mớ, ghế gỗ - ghế gố ) * Một số nguyên nhân dẫn đến học sinh phát âm sai lẫn như trên: - Sai do cách phát âm theo vùng miền : Ví dụ: l – n , , x – s , ch – tr, r – d - Sai do thói quen sử dụng từ ngữ của vùng miền (Bẩn – bửn, rượu – riệu, gãy – gẫy ) - Sai do bộ máy phát âm của các em chưa hoàn chỉnh (sai dấu thanh) - Sai do bản thân các em chưa kiên trì luyện tập Đầu năm học Lỗi phát âm cơ bản (Khi chưa vận dụng các biện pháp trên) Số lượng Tỉ lệ (%) * Sai lẫn một số phụ âm -Sai lẫn âm l / n: 20 /27 74,07 - Sai lẫn âm ch / tr: 10 / 27 37,04 - Sai lẫn x / s: 8 / 27 29,63 . 4 / 27 14,81 - Sai lẫn p / b: * Sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần 8/ 27 37,04
- * Sai lẫn dấu thanh - Những tiếng có thanh hỏi / thanh nặng: 5 / 27 18,52 - Những tiếng có thanh sắc – thanh ngã: 7 / 27 25,93 * Sai về thói quen sử dụng từ ngữ của vùng miền (Bẩn – 12 / 27 44,44 bửn, rượu – riệu, gãy – gẫy ) III. CÁC GIẢI PHÁP 1. Hướng dẫn học sinh phát âm: Hướng dẫn cách phát âm là phương pháp quan trọng hàng đầu. Đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm và cả kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Để hướng dẫn cho học sinh, cần nghiên cứu bài, tập phát âm nhiều lần, tập nói lời hướng dẫn, tham khảo từ đồng nghiệp để có cách hướng dẫn hiệu quả nhất. Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, tôi luôn so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (môi – răng – lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi ). Ví dụ một vài trường hợp cụ thể hay gặp: - Khi học sinh sai lẫn âm l / n: + Âm l: lưỡi uốn cong, bật đầu lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt khoát. + Âm n: Lưỡi ép sát lợi trên, cho hơi thoát ra đường mũi, sau đó mở miệng cho hơi thoát ra trên mặt lưỡi, luồng hơi có thể kéo dài. + Với những học sinh vẫn chưa phát âm được, tôi yêu cầu các em dùng hai ngón tay, bóp mũi lại để đọc âm l (đối với âm n, khi bóp mũi lại sẽ không thể đọc được). - Khi học sinh sai lẫn âm ch / tr: + Âm ch: môi mở hơi hẹp, đẩy lưỡi ra ép sát hai hàm răng, hơi thoát ra ở răng, nhẹ, nghe như có tiếng gió. + Âm tr: cuộn cong và rút ngắn đầu lưỡi, đầu lưỡi ép sát lợi trên, hơi thoát ra mạnh ở điểm đầu lưỡi.
- - Khi học sinh sai lẫn x / s: + Âm x: Đẩy lưỡi ra chạm 2 hàm răng, môi hẹp, khi hơi thoát ra nghe có tiếng “xì” trước khi mở miệng. + Âm tr: Cong đầu lưỡi, rút ngắn lưỡi, mở miệng cho hơi thoát ra mạnh. - Khi học sinh sai lẫn p / b: + Âm p: Môi mím chặt, sau đó bạt môi mạnh cho hơi thoát ra dứt khoát ngay ở môi. + Âm b: môi mím nhẹ, sau đó mở to miệng cho hơi thoát ra từ trong cổ, hơi có thể kéo dài. - Khi học sinh phát âm sai lẫn ở những âm đầu vần và cuối vần - Vần uya đọc thành ua: + Vần ua : môi mở hơi rộng, hàm dưới hơi đưa về trước và lượn cho hơi thoát ra từ cổ + Vần uya: môi mở hẹp, cho hơi thoát ra từ mặt lưỡi - uơ đọc thành uê + uơ: lượn tròn 2 môi, cho hơi thoát ra ở môi. + uê: tròn hai môi như đọc u , hơi thoát ra ở môi, 2 môi không lượn như ươ - uyên đọc thành uên + uyên: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡn. + uên: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi. * Sai lẫn dấu thanh (gặp ở những học sinh có hệ thống bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh): - Những tiếng có thanh hỏi / thanh nặng: đi ngủ - đi ngụ, cử tạ - cự tạ ) + Tiếng có thanh hỏi: tôi hướng dẫn cho học sinh phát âm trầm, hơi luyến giọng, lên cao, kéo dài hơi. Có thể kèm theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên. + Tiếng có thanh nặng: phát âm thấp giọng và nặng, dứt khoát (không kéo dài); Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu. - Những tiếng có thanh sắc – thanh ngã ( em bé ngã – em bé ngá, lọ mỡ - lọ mớ, ghé gỗ - ghế gố ) + Những tiếng có thanh ngã đọc nhấn mạnh, hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng. + Những tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngăn, đọc nhanh, không kéo dài. Bằng cách hướng dẫn (như một vài ví dụ nêu trên) tôi nhận thấy học sinh có thể dẽ dàng phát âm và đạt hiệu quả cao. 2. Rèn luyện ý thức tự giác cho học sinh: Rèn cho học sinh có ý thức tự giác trong việc rèn phát âm cho mình là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Học sinh có tự giác sửa chữa thì việc sửa phát âm cho học sinh mới đạt được kết quả cao. Giáo viên phải cho học sinh thấy được việc mình phát âm chưa chuẩn sẽ có
- những tác động không tốt: gây hiểu nhầm về nghĩa của từ,viết sai chính tả, người nghe chê cười Nắm được nhũng điều đó, học sinh tự bản thân ý thức được cần phải rèn luyện phát âm, sửa chữa để mình phát âm đúng. Trong số những học sinh phát âm sai, có một phần nhỏ học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình nên chỉ phát âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen nên phát âm không chuẩn xác. Với những đối tượng này, tôi thật nghiêm khắc, khen – chê đúng mực để các em thấy rằng mình có khả năng học tập rất tốt, mình cần phải thể hiện hết khả năng của mình. 3. Giáo viên đọc mẫu: Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn coi thầy, cô giáo của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo. Các em thích mình giống như thầy cô và người lớn. Các em thường “bắt chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ, chữ viết Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe giọng của giáo viên. Vì vậy giáo viên cố gắng cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai từng bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải phát âm chuẩn xác. Xác định được điều đó, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, thường xuyên tập luyện để có kĩ năng phát âm đúng chuẩn để làm mẫu cho học sinh. Khi vận dụng phương pháp đọc mẫu cho học sinh, tôi luôn rèn luyện cho các em biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn (nghe tiếng phát âm và quan sát môi, miệng, lưỡi của cô) . Như thế học sinh sẽ phát âm đúng và dễ dàng hơn. Người giáo viên khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình môi” nhằm hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác hơn. Học sinh nếu chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc phát âm sẽ không đạt hiệu quả cao. Nhờ vận dụng phối hợp phương pháp đọc mẫu với việc hướng dẫn học sinh cách phát âm, tôi đã giúp cho học sinh lớp mình có kĩ năng phát âm tương đối tốt. Phần đông học sinh lớp tôi phát âm đúng, rõ ràng. 4. Khuyến khích học sinh phát hiện và điều chỉnh lẫn nhau: Hoạt động dạy – học luôn luôn được thực hiện trong mối quan hệ tương tác : giáo viên với học sinh, học sinh với giáo viên, học sinh với học sinh. Một tiết học diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở nên đơn điệu, không phát huy được tích cực, chủ động của học sinh, đồng thời bầu không khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên; người giáo viên cũng không thể hiện rõ được vai trò là người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm
- tòi, lĩnh hội kiến thức. Như vậy sẽ không thực hiện được mục tiêu đổi mới phương pháp dạy – học hiện nay. Trong quá trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, tôi luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Tôi đã chú trọng việc rèn cho các em có kĩ năng nghe – nhận xét – sửa sai giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết học trở thành một thói quen, tạo nề nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực. 5. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc. Để giúp học sinh phát âm chuẩn, tôi không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn học vần. Tôi luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học khác, trong giờ chơi, trong hoạt động tập thể Bởi vì những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất. Tôi luôn chú ý quan sát để phát hiện những lỗi phát âm của các em và kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh thới quen phát âm chuẩn dù ở bất cứ nơi nào. 6. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh: Ngay từ đầu năm học tôi đã có kế hoạch cùng bàn bạc và thảo luận với phụ huynh nêu ra cách đọc một số chữ khó để phụ huynh nắm bắt được, từ đó tạo điều kiện rèn luyện phát âm cho các em khi ở nhà. Với một số em cá biệt về phát âm, tôi gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên họ nên chọn mua những quyển truyện tranh trong đó có lời đối thoại nhiều phụ âm mà học sinh hay nhầm lẫn và dành thời gian đọc, kể cho các em nghe, dạy em kể lại chuyện. Ngoài ra tôi còn nhắc nhở phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia đình , giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi trường giáo dục cho các em khi ở nhà. Như vậy việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo môi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng . Một số trường hợp, học sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các em chưa hiểu cách phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương ( rượu - riệu , bẩn – bửn, gãy – gẫy ). Đối với những trường hợp này, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, tôi luôn quan tâm tới các em thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương. Ngoài ra, thông qua họp phụ